Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VÀ CÔNG CUỘC CHẠY ĐUA VỚI NHẬN THỨC

16:49 |
Cuộc nghiên cứu này được thực hiện với 40 trẻ em từ trước khi sinh cho đến tầm 7 – 9 tuổi và được công bố hôm 25/3.

Các nhà nghiên cứu tại Viện Developing Mind ở Bệnh viện Nhi Los Angeles (CHLA) và các đồng nghiệp của Trung tâm Children’s Environment Health ở Đại học Columbia đã phát hiện ra sự ảnh hưởng mạnh mẽ giữa việc tiếp xúc độc tố thần kinh hydrocacbon thơm nhiều vòng (PAH) trước khi sinh và sự nhiễu loạn trong các bộ phận của não bộ liên quan đến quá trình xử lí thông tin và điều chỉnh hành vi.

Cuộc nghiên cứu này được thực hiện với 40 trẻ em từ trước khi sinh cho đến tầm 7 – 9 tuổi, và là một phần của nhóm đối tượng nghiên cứu của trung tâm, đã được công bố trên tờ JAMA Psychiatry online ngày 25/3.

PAH có ở khắp mọi nơi trong môi trường, ở nhà, và ở nơi làm việc. Khí thải từ xe cộ, đốt cháy nhiên liệu than và dầu để sưởi ấm hay tạo ra năng lượng trong các hộ gia đình, trong nông nghiệp, các vùng chất thải độc hại, khói thuốc lá đều là những nguồn dễ tiếp xúc.


PAH tiếp xúc với thai phụ và ảnh hưởng đến não bộ của thai nhi, những cuộc nghiên cứu sớm trên động vật đã chỉ ra rằng việc tiếp xúc với các chất này trong thời kì mang thai làm suy giảm sự phát triển của hành vi, học hỏi và trí nhớ.

Các nhà khoa học do Bradly S. Peterson, bác sĩ y khoa, giám đốc Viện developing Mind ở Viện nghiên cứu Saban của CHLA phụ trách cùng với Virginia Rauh, tiến sĩ khoa học, và Frederica Perera, tiến sĩ về sức khỏe cộng đồng, tiến sĩ đến từ khoa Sức khỏe cộng đồng của đại học Colombia, thực hiện một nghiên cứu để kiểm tra ảnh hưởng của PAH lên não bộ thai nhi trong 3 tháng cuối của thai kì.

Họ đã sử dụng chụp cộng hưởng từ (MRI) để đánh giá não bộ của 40 đứa trẻ từ nhóm hơn 600 cặp mẹ – con từ một cộng đồng nhỏ của thành phố New York. Các nhà nghiên cứu trước đây đã thông báo việc tiếp xúc với PAH trong thời kì thai nghén có liên quan đến việc tăng gấp bội sự nhiễu loạn của quá trình phát triển thần kinh, bao gồm sự trì trễ phát triển vào năm 3 tuổi, giảm trí thông minh ngôn ngữ vào năm 5 tuổi, và có dấu hiệu lo lắng trầm cảm vào năm 7 tuổi.

“Đây là nghiên cứu chụp cộng hưởng từ lớn nhất để xác định sự tiếp xúc sớm như thế nào với các chất ô nhiễm không khí đặc biệt là PAH ảnh hưởng đến sự phát triển của não bộ”, Peterson, Giáo sư Khoa nhi và bệnh học tâm thần tại Khoa Y Keck tại đại học Southern California nói.

“Những phát hiện của chúng tôi gợi ý rằng PAH góp phần gây ra ADHD (bệnh rối loạn tăng động giảm chú ý) và những vấn đề về hành vi khác bởi vì các chất ô nhiễm gây tác dụng phá vỡ sự phát triển não bộ”.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự giảm sút gần như toàn bộ bề mặt chất trắng của não trái – sự giảm sút này liên quan đến quá trình xử lí thông tin chậm hơn trong việc kiểm tra trí thông minh và những vấn đề hành vi nghiêm trọng hơn, bao gồm ADHD và thái độ gây gổ.

Tiếp xúc PAH sau khi sinh – được đo ở độ 5 tuổi – được xem là góp phần gây ra thêm những nhiễu loạn trong sự phát triển của chất trắng ở vùng trước trán liên quan đến khả năng tập trung, lí luận, đánh giá và khả năng giải quyết vấn đề.

Peterson giải thích rằng các đặc điểm hình thái học liên quan đến dấu hiệu ADHD trong mẫu của cộng đồng này khác với những thông báo trước đó trong nhóm trẻ gặp vấn đề rối loạn này, gợi ý rằng tiếp xúc nhiều với PAH có thể giảm một dạng phụ của ADHD.

Peterson giải thích những phát hiện của nghiên cứu này được giới hạn với một nhóm nhỏ dân số nghèo và trình độ dân trí thấp, vì vậy không thể tổng quát hóa cho những lớp dân số khác, mặc dù số ít dân số thành thị nghèo đói tiếp xúc không cân xứng với chất ô nhiễm. Trong khi nghiên cứu đầu tiên bị hạn chế, các nhà nghiên cứu hiện nay đang thực hiện một nghiên cứu lớn hơn rất nhiều để xác minh và mở rộng thêm các phát hiện của họ.

“Những phát hiện của chúng tôi đưa ra một mối quan tâm lớn hơn về tác dụng của các chất ô nhiễm đối với sự phát triển não bộ ở trẻ em, và hậu quả của nó đối với nhận thức và hành vi,” Peterson nói.

“Nếu được xác minh, những phát hiện này có một quan hệ mật thiết với sức khỏe cộng đồng, vì PAH có mặt khắp các chất ô nhiễm trong tổng thể dân số”.
Theo nguồn: thiennhien.net
Read more…

HÃY TÁI CHẾ NHIÊN LIỆU HẠT NHÂN

15:52 |
Năng lượng hạt nhân đang là nguồn năng lượng được hướng đến trong thời đại phát triển vì nó tạo ra được nguồn năng lượng rất lớn, năng lượng xanh không gây ô nhiễm không khí, là nguồn nhiên liệu độc lập vì được chế tạo từ việc phân hạch Uranium, Sử dụng năng lượng này có thể làm cho nhiều quốc gia có thể độc lập về năng lượng và không phụ thuộc vào việc khai thác những nhiên liệu như than đá.
Tuy nhiên, việc tái chế năng lượng hạt nhân chưa được phổ biến, các thanh nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng vẫn còn đến 95% giá trị năng lượng, việc tái chế không chỉ giúp khai thác giá trị năng lượng một cách đáng kể mà còn giảm khối lượng và độc tính phóng xạ của chất thải hạt nhân.
Vì vậy, chu kì nhiên liệu hạt nhân chỉ qua một lần sử dụng như hiện nay ở Mỹ là một sự lãng phí năng lượng rất lớn.

Những thanh nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng được giữ trong hồ mát tại nhà máy
hạt nhân ở Yongbyon, Triều Tiên năm 2003 (Ảnh: msnbc)

Phát biểu trong hội nghị thường niên của Hiệp hội vì sự tiến bộ khoa học, Nguyên Chủ tịch Ủy ban điều tiết hạt nhân khẳng định, bỏ qua việc tái chế nhiên liệu hạt nhân là bỏ qua cơ hội tăng cường an ninh năng lượng và tầm ảnh hưởng với những nước khác.

T.S Dale Klein - Phó GĐ Viện năng lượng Austin cho hay, trong khi Mỹ chưa tham gia vào công cuộc tái chế nhiên liệu hạt nhân, các nước khác như Pháp, Nhật, Anh, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đã dành ra những nguồn lực đáng kể cho chương trình của mình.

Theo đó, lý do lớn nhất chống lại việc tái chế nhiên liệu hạt nhân ở Mỹ là lo ngại phát triển vũ khí hạt nhất. Tuy nhiên, Klein cho rằng, lo ngại này hoàn toàn thiếu cơ sở. "Sự thật là plutonium trong nhiên liệu hạt nhân tái chế phân hạch nhưng không quốc gia nào chế tạo vũ khí hạt nhân bằng plutonium thứ cấp được lấy từ nhiên liệu hạt nhân đã bị đốt cháy" - Klein cho biết.

Ngoài ra, theo Klein, nhiều người còn "hoang tưởng" rằng, rất khó để lưu giữ nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng một cách an toàn. Tại Mỹ, các đơn vị điều hành nhà máy năng lượng hạt nhân tiếp tục trữ những thanh nhiên liệu hạt nhân qua sử dụng tại một địa điểm trong các hồ nước trước khi chuyển chúng sang lưu trữ trong các thùng khô. Mặc dù vẫn có một vài tranh cãi nhưng công tác lưu trữ hiện nay được đa số chấp nhận là an ninh và đảm bảo.

Read more…

SỰ SỐNG TRÊN TRÁI ĐẤT SẼ BỊ " XÓA BỎ "

15:28 |
Các bằng chứng hóa thạch cho thấy Trái Đất hình thành cách đây khoảng 3,5 tỷ năm, nhưng câu hỏi đặt ra là nó sẽ còn tồn tại trong bao lâu và những yếu tố nào có thể xóa bỏ toàn bộ sự sống.
Mặt Trời

Trong khoảng một tỷ năm tới, Mặt Trời sẽ nóng đến mức làm khô cạn toàn bộ các đại dương trên Trái Đất. Nhiệt độ tăng cao sẽ giết chết toàn bộ các sinh vật và không có ngoại lệ.

Trong vòng 5 tỷ năm tới, Mặt Trời sẽ mở rộng và trở thành một sao khổng lồ đỏ. Sau 7,5 tỷ năm, bề mặt nó sẽ chạm tới quỹ đạo và nuốt chửng Trái Đất. Nếu muốn sống sót, con người sẽ phải tìm cách rời khỏi hành tinh này.



Mặt Trời có thể nở ra và nuốt chửng Trái Đất. Ảnh: Alamy


Núi lửa


Cách đây khoảng 250 triệu năm, trong thời kỳ cuối kỷ Permi, sự sống được cho là đã gần như bị hủy diệt hoàn toàn. 85% sinh vật sống trên đất liền và 95% sinh vật sống dưới đại dương tuyệt chủng. Dù không ai dám chắc điều đã xảy ra, có sự trùng hợp giữa hoạt động quy mô lớn mang tính huỷ diệt của các núi lửa và sự tuyệt chủng.


Dung nham núi lửa có thể bao phủ một bề mặt rất rộng. 

So với chúng, sức tàn phá của siêu núi lửa như Yellowstone cũng không sánh bằng. Ở Siberia vào thời điểm đó, dung nham ước tính bao phủ khu vực có diện tích gấp 8 lần diện tích nước Mỹ ngày nay. Theo chuyên gia Henrik Svensen, Đại học Oslo của Na Uy, chắc chắn hiện tượng này sẽ lặp lại như nó từng xảy ra vào các thời điểm cách đây 200 triệu năm, 180 triệu năm và 65 triệu năm trước, tuy nhiên không thể dự đoán thời gian và địa điểm.

Svensen cho rằng, khả năng hủy diệt sự sống của các hoạt động núi lửa này phụ thuộc vào địa chất nơi xảy ra. Phun trào núi lửa 250 triệu năm trước có thể không phải nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tuyệt chủng hàng loạt, mà thủ phạm thực sự là muối. Siberia là một vùng đất có nhiều mỏ muối. Khi mỏ muối bị hoạt động núi lửa đun nóng, một lượng lớn hóa chất phá hủy tầng ozone sinh ra, toả vào bầu khí quyển. Các sinh vật không chịu được bức xạ có hại từ Mặt Trời và chết dần chết mòn.

Ngày nay, nhiều mỏ muối vẫn đang tồn tại trên Trái Đất, như ở ngoài khơi Brazil hay đông Siberia. Nếu những vụ phun trào tương tự xảy ra ở những khu vực này, nhiều loài sẽ chết. Tuy nhiên, cũng giống như thời điểm đó, sự sống sẽ không biến mất. Các sinh vật đơn bào như vi khuẩn sẽ sống sót, gần như không bị tổn hại gì.
Vụ nổ bức xạ Gamma

Các vụ nổ bức xạ Gamma (GRBs) cũng là một trong những nguyên nhân có thể gây tuyệt chủng. Đây được coi là nguyên nhân của sự kiện tuyệt chủng lớn thứ hai trong lịch sử Trái Đất (Ordovician), xảy ra khoảng 450 triệu năm trước. GRBs được tạo ra khi một ngôi sao khổng lồ phát nổ, hoặc khi hai ngôi sao va chạm.

Theo tính toán lý thuyết, GRBs có thể phá hủy toàn bộ tầng ozone và không còn gì ngăn cản các tia tử ngoại chết chóc từ Mặt Trời nữa. Tuy nhiên, Trái Đất ở vị trí tương đối an toàn. "Nếu Trái Đất ở vị trí gần tâm thiên hà hơn hai lần nữa, sự sống sẽ không còn", BBC dẫn lời Giáo sư Raul Jimenez, Đại học Barcelona, Tây Ban Nha, nói. Ngôi sao đôi WR104, ở gần chúng ta nhất và có khả năng gây ra một vụ GRBs trong vòng 500 nghìn năm tới cũng không có khả năng gây hại tới Trái Đất.

Ngay cả khi Trái Đất chịu ảnh hưởng của GRBs, nó cũng không thể xóa sổ toàn bộ sự sống. Các đại dương sẽ là tấm lá chắn bức xạ cho các sinh vật. Con người có thể không còn, nhưng các dạng sống mới sẽ bắt đầu.

Va chạm với thiên thạch

Một vụ va chạm giữa thiên thạch cỡ lớn với Trái Đất đã dẫn đến sự kiện tuyệt chủng của loài khủng long. Tuy nhiên, việc sự sống có bị hủy diệt hay không phụ thuộc vào nơi va chạm và thành phần cấu tạo của thiên thạch. Theo các bằng chứng hóa thạch thu được, một vụ va chạm rất lớn từng xảy ra 125 triệu năm trước và tạo thành miệng núi lửa nổi tiếng Manicouagan. Tuy nhiên, vụ va chạm không khiến khủng long tuyệt chủng hàng loạt, do thành phần của thiên thạch khi đó là đá kết tinh, tương đối "trơ" về mặt hóa học. Ngược lại, nếu thành phần của thiên thạch là đá trầm tích không ổn định, dễ bay hơi, nó có thể tạo ra những đám mây khí làm thay đổi khí hậu trong bầu khí quyển, gây tuyệt diệt quy mô toàn cầu. 


Theo giới chuyên gia, may mắn cho con người là chu kỳ lặp lại của một vụ va chạm tương tự là khoảng 500 triệu năm. Ngay cả khi điều đó xảy ra, sự sống trên Trái Đất chỉ bị hủy diệt hoàn toàn khi thiên thạch có kích thước cỡ ngang một hành tinh "mồ côi".

Trái Đất bị đóng băng

Một số nhà khoa học cho rằng, từ trường Trái Đất làm chệch hướng các hạt mang điện phóng tới từ Mặt Trời, giúp bảo vệ bầu khí quyển. Nếu nhân Trái Đất nguội đi, từ trường không còn, bầu khí quyển cũng sẽ biến mất, đồng nghĩa rằng sẽ không còn sự sống. Đây có thể là vấn đề từng xảy ra với sao Hỏa.

Giới nghiên cứu chứng minh được rằng cách đây 3,7 tỷ năm, sao Hỏa từng có từ trường rồi mất đi, khiến hành tinh trở nên khô cằn và lạnh lẽo như ngày nay. Tuy nhiên, theo chuyên gia Richard Harrison, thuộc Đại học Cambridge, Anh điều này nếu có cũng không xảy ra trong tương lai gần. Từ trường Trái Đất chỉ biến mất khi nhân của nó đông đặc hoàn toàn. Hiện chỉ có phần nhân bên trong là rắn, phần nhân ngoài ở thể lỏng. Nhân bên trong tăng khoảng 1 mm/năm, trong khi phần nhân nóng chảy có bề dày khoảng 2.300 km.



Nếu nhân Trái Đất nguội đi, từ trường không còn, bầu khí quyển cũng sẽ biến mất.Ảnh: Alamy

Các ngôi sao đi lạc

Khoảng 70.000 năm trước, một sao lùn đỏ mang tên Scholz đã bay lướt qua vòng ngoài của hệ Mặt Trời, sau khi xuyên qua vùng mây băng Oort. Theo các nhà thiên văn học, đó không phải lần đầu tiên và cũng không phải lần cuối. Tuy nhiên, khả năng gây hại của nó rất thấp. Xác suất một ngôi sao "mồ côi" lớn hơn Scholz trở thành siêu tân tinh (supernova) sau khi đi qua vùng Oort phát tán bức xạ Gamma tới hủy diệt sự sống Trái Đất là rất nhỏ.

Sự sống tự hủy diệt

Theo giả thuyết Medea của giáo sư Peter Ward, Đại học Washington, Mỹ, quá trình tự hủy diệt đã diễn ra hai lần. Lần đầu xảy ra cách đây khoảng 2,3 tỷ năm, rất nhiều khí oxy được sinh ra khi các dạng sống thực vật quang hợp. Trước đó không có oxy tự do, dẫn tới việc các vi sinh vật chết hàng loạt.

Khoảng 450 triệu năm trước, thực vật trên cạn lần đầu xuất hiện. Rễ cây đâm xuống đất, tăng tốc độ phản ứng hóa học giữa các khoáng chất trong đá và khí CO2 trong khí quyển. Điều này làm giảm mạnh nồng độ CO2, giảm hiệu ứng nhà kính và đẩy Trái Đất bước vào thời kỳ băng hà chết chóc.

Dự đoán trong tương lai, Mặt Trời ngày càng nóng lên. Hệ quả là nhiệt độ của Trái Đất cũng tăng, dẫn tới phản ứng mạnh mẽ giữa các khoáng chất trong đá và CO2. Khi không còn đủ CO2 cho thực vật quang hợp, chúng sẽ tuyệt chủng trước, kéo theo sự biến mất của toàn bộ hệ động vật. Theo Ward, quá trình này sẽ xảy ra trong vòng 500 triệu năm tới.
Read more…

XỬ LÝ NƯỚC THẢI - KHỬ HỢP CHẤT NITƠ TRONG NƯỚC THẢI

20:55 |
I. Tổng quát
Trong nước thải dân dụng và công nghiệp và trong tự nhiên nito tồn tại chủ yếu dưới dạng hợp chất hữu cơ và amniac và các hợp chất dạng oxy hóa ( nitric, nitrat ) như: NH4+, NH3 và NO3-, NO2-.

Hình 1: Chu trình Nito trong tự nhiên

Trong nước thải sinh hoạt nitơ tồn tại dưới dạng vô cơ (65%) và hữu cơ (35%). Nguồn nitơ chủ yếu là từ nước tiểu. Mỗi người trong một ngày xả vào hệ thống thoát nước 1,2 lít nước tiểu, tương đương với 12 g nitơ tổng số. Trong số đó nitơ trong urê (N-CO(NH¬2)2) là 0,7g, còn lại là các loại nitơ khác

Tác hại của nito với môi trường và nước thải 

Nito là hàm lượng chất dinh dưỡng chủ yếu của các sinh vật thủy sinh => gây sự phát triển mạnh mẽ của các loại thực vật phù du => tình trạng thiếu oxy trong nước, phá vỡ chuỗi thức ăn , giảm chất lượng nước, phá hoại môi trường trong sạch của thủy vực, sinh ra nhiều chất độc tiêu diết nhiều loại sinh vật có ích trong nước=> gọi là hiện tượng phú nhưỡng


Hình 2: Hiện tượng phú nhưỡng ở ao hồ

Đối với quá trình xử lý nước thải: Sự có mặt của Nitơ có thể gây cản trở cho các quá trình xử lý làm giảm hiệu quả làm việc của các công trình, đặc biệt nó có thể kết hợp với các loại hoá chất trong xử lý để tạo các phức hữu cơ gây độc cho con người.
II. Các phương pháp khử Nito trong nước thải

1. Xử lý Nito bằng phương pháp sinh học :

+ Phương pháp này thường được áp dụng trong xử lý nước thải đối với các loại nước thải có hàm lượng N trên dưới 100mg/l.

Xử lý Nito trong nước thải bằng phương pháp sinh học được xử lý qua 2 quá trình:
Quá trình nitrat hóa: dưới tác động của vi sinh vật, NH4+ sẽ được chuyển hóa thành NO2 và NO3-.

Quá trình tạo thành NO2- gọi là quá trình nitrit hóa, vi khuẩn Nitrosomonas sẽ chuyển hóa NH4+ thành NO2 .

NH4+ + 3/2O2 -> NO2- + H2O + 2H+

Quá trình tạo thành NO3- gọi là quá trình nitrat hóa, vi khuẩn Nitrobacter tiếp tục chuyển hóa NO2- thành NO3-.

NO2- + 1/2O2 -> NO3-

+Quá trình phản nitrat hóa (khử nitrat)

Là quá trình chuyển NO3- -> N2 nhờ vi khuẩn pseudomonas.
NO3- + 6H+ -> 1/2N2 +3 H2O.


2.  Phương pháp kiềm hóa
:
 Đưa pH lên 11,2 ÷ 11,5 để tạo thành NH3 (là dạng nito amoni bay hơi) dùng quạt thổi khí NH3 ra khỏi nước. Phương pháp này thường sử dụng trong xử lý nước thải rỉ rác, chi phí của phương pháp này rất cao nên ít khi được sử dụng đối với nước thải có lượng N thấp.

3. Phương pháp điện phân nước biển :
 Khi trạm xử lý nước thải được đặt cạnh biển thì phương pháp điện phân nước thải pha 20% nước biển sẽ rẻ hơn so với stripping, bởi phương pháp stripping có một số nhược điểm rõ ràng: chi phí điện cho thổi khí, vật liệu sử dụng để nâng pH đa phần vôi (bởi dùng sút đắt tiền và làm tăng độ mặn của nước thải) thì trong quá trình thổi khí sẽ hình thành một lượng đáng kể cặn canxi cacbonat gây ra rất nhiều khó khăn để loại bỏ cặn này ra khỏi tháp stripping, chi phí hóa chất sử dụng để hạ pH (thường là dùng axit sunfuric để vừa hạ pH vừa kết tủa cation Ca2+ -> CaSO4). Nguyên lý hoạt động của phương pháp điện phân như sau: sản phẩm của quá trình điện phân là kết tủa magie hidroxit, chất này tạo phức với amoni, và nhờ thế làm giảm đáng kể hàm lượng amoni. Nó có nhiều điểm tương đồng với việc hấp phụ amoni bằng magie hidroxit hoạt tính. Bên cạnh đó tại anod còn hình thành một lượng Cl2, đây là chất oxi hóa mạnh có thể phản ứng với amoni tạo thành N2 và HCl. Quá trình điện phân được thực hiện ở điện áp 7V với anod bằng than chì và catod là thép không rỉ. Quá trình giúp suy giảm đến 85% hàm lượng amoni và 90% photphat (nếu có), chi phí là 300 Wh điện cho 1 m3 nước thải, hàm lượng nito trong kết tủa là 2%, photpho là 1%. Bên cạnh đó phương pháp còn giúp làm suy giảm đáng kể COD và SS. Mặc dù có nhiều ưu điểm song do sau xử lý nước thải có độ mặn đáng kể nên cũng chỉ được phép xả ra biển.

Read more…

KHỦNG HOẢNG NƯỚC THẢI CÓ THỂ TÀN PHÁ NHIỀU QUỐC GIA

20:19 |
Nhân "Ngày Nước Thế giới" được tổ chức vào ngày 22/3 hằng năm, Liên hợp quốc đưa ra lời cảnh báo nếu không có những thay đổi mạnh mẽ, thế giới sẽ rơi vào một cuộc khủng hoảng nước có thể tàn phá các quốc gia có thời tiết nóng và khô hạn. 


Bãi biển ở tỉnh Hải Nam, Trung Quốc bị ô nhiễm với rác thải. (Nguồn: AFP/TTXVN)

Báo cáo thường niên mang tên "Phát triển Nước Thế giới" cho biết thế giới hiện vẫn có đủ nước để dùng nhưng sẽ thiếu 40% vào năm 2030 nếu không thay đổi mạnh mẽ cách thức sử dụng, quản lý và chia sẻ nguồn nước.

Báo cáo đưa ra danh sách dài các hình thức lãng phí nước như ô nhiễm vì thuốc trừ sâu, ô nhiễm công nghiệp, không xử lý nước thải, khai thác quá mức, đặc biệt cho tưới tiêu.

Ông Michel Jarraud, người đứng đầu Tổ chức Nước và Khí tượng Thế giới (WMO), nhấn mạnh thay đổi cách đo đạc, giám sát và thực hiện các biện pháp này đã trở thành nhu cầu cấp thiết nhằm đảm bảo nước được sử dụng bền vững.

Dân số tăng trưởng nhanh là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến khủng hoảng nước. Báo cáo lấy dẫn chứng là dân số 7,3 tỷ người trên thế giới hiện nay sẽ tăng khoảng 80 triệu người/năm, có thể lên đến 9,1 tỷ người vào năm 2050.

Để nuôi số nhân khẩu mới, khu vực nông nghiệp sẽ phải tăng 60% lượng nước tiêu thụ, vốn đã "ngốn" 70% tổng lượng nước tiêu thụ trên thế giới. Biến đổi khí hậu, đô thị hóa cũng là những yếu tố làm gia tăng nguy cơ khủng hoảng nước.

Báo cáo cũng cho biết hơn một nửa dân số thế giới đang sử dụng nước khoan để sinh hoạt, chưa kể 40% nước tưới tiêu được khai thác từ nguồn này.

Trong khi đó, khoảng 20% các mạch nước ngầm đang bị khai thác bừa bãi một cách nguy hiểm và rất nhiều nước sạch bị rút từ các tầng đá xốp khiến nước mặn ngấm vào nước ngọt ở các vùng duyên hải.

Vào năm 2050, nhu cầu nước toàn cầu có thể tăng 55%, chủ yếu do đô thị hóa. Các thành phố sẽ phải khoan hoặc đào sâu hơn mới đến tầng nước hoặc sẽ phải dựa vào những giải pháp mới và công nghệ hiện đại để đáp ứng nhu cầu nước sạch.

Báo cáo của Liên hợp quốc cho rằng để giải quyết những vấn đề trên cần phải có cách thức quản lý thông minh và trách nhiệm, tức là phải phối hợp các quy định và sáng kiến để hạn chế tình trạng lãng phí nước, trừng phạt những hành động làm ô nhiễm nước, khuyến khích đổi mới và bảo vệ những môi trường sống có thể duy trì sự đa sạng sinh học và nước cho con người.

Năm ngoái, Ủy ban Liên Chính phủ về Biến đối Khí hậu (IPCC) ước tính khoảng 80% dân số thế giới đang phải đối mặt những mối đe dọa nghiêm trọng về an ninh nước, trong khi biến đổi khí hậu có thể làm thay đổi nguồn nước sẵn có.
Theo nguồn: moitruong.com.vn
Read more…

KHÓI NHANG, THUỐC LÁ " KẺ TÁM LẠNG NGƯỜI NỮA CÂN "

22:51 |
Nhang (hương) là một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh của các gia đình. Tuy có mùi thơm dễ chịu, nhưng khói nhang có thể gây hại cho sức khỏe con người.

Khói nhang có tác động tiêu cực ngang với khói thuốc lá.

Nhiễm trùng đường hô hấp

Theo một nghiên cứu gần đây cho thấy, khói nhang có thể gây hại tới sức khỏe con người. Kết quả của nghiên cứu đã chứng minh rằng, đốt nhang trong phòng sẽ tạo ra chất carbon monoxide,gây ô nhiễm không khí. 

Loại khí này có thể dẫn đến tình trạng viêm tế bào phổi, làm tăng nguy cơ biến chứng các cơ quan hệ hô hấp. Một số người mẫn cảm với thành phần của khói nhang còn bị ho và hắt hơi, thậm chí nghẹt thở vì hít quá nhiều khói nhang.

Mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và hen suyễn

Khi đốt nhang, nhiều chất gây ô nhiễm không khí thoát ra ngoài như sulfur dioxide, carbon monoxide, oxit nitơ, formaldehyde. Chúng đều là những loại khí có hại cho hệ hô hấp.

Khi hít một lượng lớn khói nhang, người sử dụng có nguy cơ mắc các bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và hen suyễn. Nhiều chuyên gia còn cho rằng, khói nhang có tác động tiêu cực ngang với khói thuốc lá.

Gây dị ứng da

Việc tiếp xúc trong thời gian dài với khói nhang sẽ gây kích ứng mắt, đặc biệt là ở trẻ em và người lớn tuổi. Thêm vào đó, những người có làn da nhạy cảm cũng bị ngứa khi tiếp xúc với khói nhang. 

Tiến sĩ Anil Ganjoo, bác sĩ da liễu tại trung tâm  Dr Ganjoo’s Skin& Cosmetology cho biết: “Những khu vực có da mỏng (như vùng da xung quanh mí mắt, mũi và khuỷu tay) là nơi dễ bị dị ứng. Vì thế, chúng ta nên cẩn thận, tránh tiếp xúc với khói nhang".

Gây nên triệu chứng thần kinh

Thường xuyên đau đầu, khó tập trung và hay quên là những triệu chứng thần kinh phổ biến mà người sử dụng nhang thường gặp phải. 

Việc thắp nhang trong nhà còn gây ô nhiễm không khí, làm tăng nồng độ carbon monoxide (CO) và oxit nitơ (NOx) trong máu. Các chất này trực tiếp tác động lên các tế bào não, gây ra các vấn đề về thần kinh.

Tăng nguy cơ ung thư đường hô hấp

Bạn đã bao giờ nghĩ rằng thắp hương lại làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư đường hô hấp? Một nghiên cứu mới đây được đăng trên tạp chí của Hiệp hội Ung thư Mỹ cho rằng việc tiếp xúc lâu dài với khói nhang làm tăng nguy cơ ung thư đường hô hấp cho người sử dụng. Kết quả của nghiên cứu này cũng chứng minh việc sử dụng nhang còn làm tăng nguy cơ ung thư tế bào biểu mô.

Khiến cơ thể dễ nhiễm độc

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng đốt nhang tỏa ra một làn khói độc hại chứa chì, sắt và magiê.  Các loại khí hóa học và hạt vật chất này khiến thận làm việc nhiều hơn để loại bỏ chất độc, dẫn tới các bệnh về thận. Khói nhang cũng làm tăng nồng độ các tạp chất trong máu.

Làm suy yếu hệ tim mạch

Thắp nhang hàng ngàytác động tiêu cực đến sức khỏe hệ tim mạch của bạn. Nghiên cứu mới đây ước tính rằng việc thắp nhang lâu dài làm tăng nguy cơsuy tim lên đến 12% và các bệnh về tim mạch vành 10%. Hít phải các hợp chất trong khói nhang cũng làm tăng nguy cơ viêm mạch máu và ảnh hưởng đến lưu lượng máu, dẫn đến các biến chứng về tim.
Theo nguồn: moitruong.com.vn
Read more…

NƯỚC BẨN " KẺ " GIẾT NGƯỜI NGUY HIỂM HƠN CẢ UNG THƯ, AIDS

10:32 |

Bệnh lây lan qua nước bẩn và vệ sinh kém chính là nguyên nhân lớn nhất gây tử vong cho phụ nữ, hơn cả bệnh ung thư, AIDS


Hằng năm có khoảng 800.000 phụ nữ tử vong vì không được tiếp cận với vệ sinh an toàn và nước sạch, con số này cao hơn cả nguyên nhân gây tử vong ở phụ nữ là bệnh ung thư vú, AIDS hay tiểu đường, theo báo cáo mới nhất của Tổ chức Phát triển WaterAid.





Giám đốc điều hành WaterAid, ông Barbara Frost, cho biết trong một tuyên bố: "Điều kiện thiếu nước sạch cũng như vệ sinh kém này ảnh hưởng đến sức khỏe phụ nữ và cách giáo dục giới tính tuổi dậy thì, dẫn đến những trường hợp tử vong sớm và không đáng có".

Nguy cơ gây tử vong cho phụ nữ nhiều hơn vấn đề nước sạch là bệnh tim, đột quỵ, nhiễm trùng đường hô hấp, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

Cũng theo báo cáo này, hơn 1 tỷ người, tương đương với 1/3 số phụ nữ trên toàn thế giới, không có điều kiện ở nơi có khu vực nhà vệ sinh riêng, nguồn nước sạch. Khoảng 370 triệu người, tương đương với 1/10 số phụ nữ, hoàn toàn không được tiếp xúc với nguồn nước sạch.

Nước bẩn và vệ sinh kém là gốc rễ của các vấn đề như bà bầu và trẻ em tử vong, bạo lực tình dục...

Nhiều phụ nữ cở các nước đang phát triển sinh con tại nhà mà không được sử dụng nguồn nước sạch, điều này có thể tăng nguy cơ nhiễm trùng cho cả mẹ và con.

Ngoài ra, nếu không có nhà vệ sinh an toàn, phụ nữ và trẻ em thường phải vệ sinh ở những nơi công cộng như sông, suối... và có nguy cơ bị quấy rối tình dục cũng như hành hung.


Theo nguồn: moitruong.com.vn
Read more…

CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI NHÀ MÁY SẢN XUẤT BIA

16:02 |
Bia – là một loại thức uống phổ biến được ưa chuộng rộng rãi trên khắp thế giới cũng như ở Việt Nam ta.




Hiện nay, ngành công nghiệp sản xuất bia ở nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ với hàng loạt các nhà máy sản xuất bia được xây dựng và phát triển rộng khắp nhưng phổ biến và nòng cốt nhất là 2 tổng công ty HABECO và SABECO.

Sau một thời gian dài phát triển năng suất và sản lượng của các công ty không ngừng tăng. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch – đầu tư, bốn tháng đầu năm 2011 các doanh nghiệp trong nước đã sản xuất 714,6 triệu lít bia các loại, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm ngoái và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước đồng thời giải quyết được việc làm cho người lao động.
Nhưng song song với sự phát triển đó thì ngành sản xuất bia cũng không tránh khỏi những mối lo ngại lớn về môi trường đặc biệt là nguồn nước thải. Do đặc tính nước thải sản xuất bia có chứa hàm lượng chất hữu cơ, BOD, COD cao nên phải áp dụng công nghệ xử lý nước thải phù hợp để xử lý đạt hiệu quả cao.





Hình: xử lý nước thải nhà máy bia của nhà máy SABECO


Để đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường công ty môi trường Minh Việt chúng tôi với đội ngũ kỹ sư tinh nhuệ là những giảng viên đến từ các trường đại học lớn, luôn cập nhật những công nghệ xử lý nước thải mới hiện đại nhất,chất lượng nhất và uy tín nhất. Và công nghệ xử lý nước thải sản xuất bia cũng không nằm ngoài lĩnh vực chuyên môn của chúng tôi.


Nguồn gốc và đặc tính của nước thải sản xuất bia


- Nước làm lạnh, nước ngưng, ít hoặc không gây ô nhiễm, có khả năng tuần hoàn sử dụng lại


- Nước thải từ bộ phận nấu – đường hóa, chủ yếu là nước vệ sinh thùng nấu , bể chứa…chứa bã malt, tinh bột, bã hoa, chất hữu cơ…


- Nước thải từ hầm lên men chứa bã men và chất hữu cơ


- Nước thải rửa chai có độ PH cao


Do đặc tính cùa nguồn nước thải phức tạp nên cần phải xử lý nước thải trước khi xả vào nguồn tiếp nhận và phải áp dụng các công nghệ xử lý nước thải thích hợp.

Quy trình công nghệ xử lý nước thải sản xuất bia

Dưới đây là sơ đồ quy trình công nghệ xử lý nước thải nhà máy sản xuất bia:





Thuyết minh quy trình công nghệ xử lý nước thải sản xuất bia


- Nước thải từ các khu vực sản xuất bia được tập trung vào một đường ống, đường ống này sẽ dẫn về hố thu gom


- Trước khi vào hố thu gom, nước thải sẽ đi qua song chắn rác để loại bỏ các tạp chất.


- Nước thải sau khi được tập trung về hố thu gom, sẽ được bơm chìm đưa lên bể điều hòa. Tại bể điều hòa có bố trí hệ thống phân phối khí nén để sục khí liên tục, mục đích của bể điều hòa là để ổn định lưu lượng, nồng độ, cũng như loại bỏ một phần BOD, COD có trong nước thải, đầu dò pH tại bể điều hòa sẽ cho các giá trị pH của nước thải, căn cứ vào giá trị đó, bơm hóa chất sẽ bơm 1 liều lượng hóa chất thích hợp vào đường ống để điều chỉnh pH nước thải về trung tính.


- Từ bể điều hòa nước thải sẽ được đưa đến bể lắng I loại bỏ tiếp các chất rắn lơ lửng hữu cơ có thể lắng được (hiệu quả lắng có thể đạt được 50-60%) nhằm giảm tải trọng hữu cơ cho công trình sinh học phía sau.


- Sau các công trình xử lý cơ học trên nước thải sẽ đưa sang công trình xử lý sinh học: hệ thống bể UASB để thực hiện qúa trình xử lí sinh học kị khí. Khí sinh học thu được từ bể UASB sẽ được thu hồi và tái sử dụng cho các mục đích khác.


- Sau khi đã loại bỏ phần lớn BOD, COD tại bể UASB, nước thải theo ống thoát nước chảy qua bể trung gian để chuẩn bị cho quá trình xử lí sinh học hiếu khí.


- Tại bể trung gian, nước thải được lưu lại nửa giờ sau đó tự động chảy sang bể Aerotank.


- Bể Aerotank có nhiệm vụ thực hiện quá trình xử lí sinh học hiếu khí, tại đây, được bố trí hệ thống phân phối bằng khí nén sục khí liên tục, cung cấp oxi cho quá trình sinh học hiếu khí xảy ra. Vi sinh vật sử dụng BOD, COD như là chất dinh dưỡng để tạo sinh khối mới hay còn gọi là bùn hoạt tính.


- Hỗn hợp nước thải và bùn hoạt tính sau đó được dẫn qua bể lắng II để thực hiện quá trình lắng nhằm tách nước và bùn. Một phần bùn sẽ được tuần hoàn lại bể Aerotank để đảm bảo lượng bùn hoạt tính trong bể, phần bùn dư còn lại được bơm bùn đưa về bể nén bùn thực hiện quá trình tách nước, giảm độ ẩm một phần trước khi đưa vào máy ép bùn để ép thành những bánh bùn. Trong quá trình bùn được đưa từ bể nén bùn về máy ép bùn, polymer sẽ được thêm vào bùn nhằm hỗ trợ cho quá trình ép bùn, tránh bánh bùn bị vỡ vụn. Nước thải đầu ra sau lắng II theo đường ống đến bể khử trùng, clorua vôi sẽ được châm vào nước thải trước khi nước thải vào bể khử trùng. Bể khử trùng được thiết kế theo dạng ziczac nhằm hỗ trợ quá trình xáo trộn clorin và nước thải, loại bỏ các vi sinh vật gây bệnh. Nước thải sau quá trình khử trùng sẽ được đưa về bể chứa nước, được lưu tại đây từ 2 đến 3 ngày, sau đó sẽ có xe bồn đến chở đi dùng làm nước tưới cây.




Read more…

VÔ SINH VÌ KHÍ THẢI XE MÁY

08:33 |
Khí thải xe máy khiến đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt và phụ nữ bị ung thư các cơ quan sinh sản dẫn đến vô sinh. Đó là kết luận mới được đưa ra bởi các nhà khoa học Nhật Bản ở Đại học Kanazawa.
Phần lớn khí thải độc hại ảnh hưởng trực tiếp tới con người là các hidrocarbon - các sản phẩm đốt cháy và chế biến xăng dầu, than, gỗ, rác, thực phẩm, thuốc lá. Chúng ảnh hưởng đến chuyển hóa các hormone sinh dục ở người.

Trong thế giới hiện đại, nguồn phát thải ra các hidrocarbon là từ các xí nghiệp năng lượng, ngành vận tải ôtô, công nghiệp hóa chất và hóa dầu. Nhiều hợp chất hidrocarbon là những chất gây ung thư mạnh.

Chúng có những thuộc tính gây đột biến gene và teratogen, phá hủy sự phát triển của phôi thai. Đây là điều được biết đến từ khá lâu nhưng cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm ra phương pháp xác định nồng độ của các hợp chất đó trong môi trường và trong cơ thể người.

Gần đây các nhà khoa học Nhật Bản đã tìm ra phương pháp cho phép thu được các chất chuyển hóa hidrocarbon trong không khí cũng như trong máu, trong nước tiểu người.

Ngay từ năm 2002, các nhà khoa học đã phân tích mẫu không khí ở 7 thành phố lớn của châu Á. Kết quả cho thấy, những phần tử chính trong không khí ở Nhật Bản là khí thải động cơ diezen, ở Trung Quốc là do đốt than đá.

Từ đó đến nay các phương pháp phân tích trên đã được hoàn thiện nhiều. Theo các chuyên gia, hiện nay phương pháp này không có đối thủ cạnh tranh về độ nhạy.

Nhờ phương pháp này, các nhà khoa học Nhật Bản đã phát hiện ra rằng, chính xe máy tạo ra nhiều phần tử nguy hiểm hơn ôtô.

Hơn nữa, hidrocarbon trong khí thải xe máy gây đột biến gene cao hơn so với khí thải từ các loại động cơ khác. Nói chung các hidrocarbon hình thành trong quá trình đốt cháy của động cơ hủy hoại sự chuyển hóa testerosterone ở đàn ông và oestrogen ở phụ nữ.

Do sự tác động như vậy mà đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt và phụ nữ bị ung thư các cơ quan sinh sản cũng như gây ra bệnh vô sinh.

Xe máy càng cũ, việc đốt cháy triệt để nhiên liệu càng bị giảm đi, khí thải độc hại vì thế ngày càng nhiều. Chính vì thế, để bảo vệ môi trường thì nhiều nước đã hạn chế sử dụng xe máy.
Theo nguồn: moitruong.com.vn
Read more…

Hot